Những vướng mắc, bất cập trong hoạt động cho thuê lại lao động
Cho thuê lại lao động là hoạt động phổ biến trên thế giới, được pháp luật nhiều nước ghi nhận và biểu hiện qua các công trình nghiên cứu của các chuyên gia.
Việc ghi nhận chính thức
hoạt động cho thuê lại lao động trong Bộ luật Lao động đã tạo ra hành lang pháp
lý vững chắc cho các bên trong quan hệ cho thuê lại lao động, tạo thêm nhiều cơ
hội việc làm cho người lao động cũng như góp phần vào sự phát triển ổn định của
thị trường lao động. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Ông Nguyễn Xuân Thu –
Phó Trưởng Ban Thư ký – Bộ Tư pháp.
PV: Xin chào Ông Nguyễn Xuân
Thu. Xin Ông cho biết hiện nay có bao nhiêu công việc được phép cho thuê lại
lao động? Theo Ông, có nên tăng thêm số lượng các công việc được phép cho thuê
lại lao động không ạ?
Ông Nguyễn Xuân
Thu: Các công việc được phép cho thuê lại lao động được giới
hạn khá hẹp tại Điều 25 Nghị định 55/2013/NĐ-CP.
Cụ thể, có 17 nhóm công việc được phép cho thuê lại lao động là: (1) Phiên
dịch/Biên dịch/Tốc ký; (2) Thư ký/Trợ lý hành chính; (3) Lễ tân; (4) Hướng dẫn
du lịch; (5) Hỗ trợ bán hàng; (6) Hỗ trợ dự án; (7) Lập trình hệ thống máy sản
xuất; (8) Sản xuất, lắp đặt thiết bị truyền hình, viễn thông; (9) Vận hành/kiểm
tra/sửa chữa máy móc xây dựng, hệ thống điện sản xuất; (10) Dọn dẹp vệ sinh tòa
nhà, nhà máy; (11) Biên tập tài liệu; (12) Vệ sĩ/Bảo vệ; (13) Tiếp thị/Chăm sóc
khách hàng qua điện thoại; (14) Xử lý các vấn đề tài chính, thuế; (15) Sửa
chữa/Kiểm tra vận hành ô tô; (16) Scan, vẽ kỹ thuật công nghiệp/Trang trí nội
thất; (17) Lái xe.
Nếu xét nhu cầu của doanh
nghiệp cho thuê lao động, bên thuê lại lao động và người lao động thì đương
nhiên họ mong muốn mở rộng tối đa danh mục các công việc được phép cho thuê lại
lao động vì nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, xét từ nhu cầu của nhà quản lý
(Nhà nước) thì mức độ an toàn cho xã hội lại là vấn đề cần được coi trọng.
Đối với Việt Nam, chưa hề
có kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này, tâm lý xã hội chưa thực
sự đồng thuận, ý thức của tất cả các bên có liên quan chưa thể nói là đã tốt…
thì việc mở rộng phạm vi danh mục công việc được phép cho thuê lại lao động cần
phải cân nhắc rất kỹ lưỡng. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta không điều
chỉnh lại Danh mục này trong quá trình triển khai thực hiện. Theo tôi, sau một
thời gian thực hiện, sơ kết rút kinh nghiệm, việc mở rộng các công việc được phép
cho thuê lại lao động là hoàn toàn có thể.
PV: Xin Ông cho biết quan
điểm của Ông về việc doanh nghiệp cho thuê lại lao động phải ký quỹ 02 tỷ đồng
tại ngân hàng thương mại? Theo Ông, những khó khăn, vướng mắc chủ yếu của các
doanh nghiệp ở đây là gì?
Ở đây, chúng ta phải
lường trước hậu quả của quy định chưa thực sự hợp lý này - đó là nguy cơ hoạt
động cho thuê lại lao động bất hợp pháp sẽ tiếp tục tái diễn, các chủ thể có
liên quan, kể cả Nhà nước đều có thể phải chịu thiệt thòi, mà trong đó người
chịu thiệt nhiều nhất chính là người lao động. Bởi vì, khi không đủ điều kiện
để được cấp phép cho thuê lại lao động, trong khi không dễ dàng chuyển sang
kinh doanh nghề khác thì điều khó tránh khỏi là họ sẽ tiếp tục kinh doanh cho
thuê lại lao động, cho dù họ biết đó là bất hợp pháp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp
cho thuê và doanh nghiệp thuê lại lao động còn gặp khó khăn về: Điều kiện đối
với người đứng đầu doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện cho thuê lao
động; quy định cấm đối với doanh nghiệp cho thuê lại lao động, … Ngoài ra,
nhiều quy định còn thiếu hoặc chưa rõ ràng trong Bộ luật lao động và văn bản
quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành về cho thuê lại lao động gây khó khăn cho
các bên hữu quan như: Các quy định về hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp cho
thuê lao động và người lao động, quy định về trách nhiệm khi người lao động
thuê lại bị tai nạn lao động…
PV: Xin Ông cho biết,
trong thị trường lao động đầy biến động như hiện nay, trong mối quan hệ cho
thuê lại lao động này, liệu rằng quyền của người lao động có bị xâm phạm không
ạ?
Những khó khăn, vướng mắc
nêu trên nếu không nhanh chóng được giải quyết thì nguy cơ quyền lợi của người
lao động bị xâm phạm là rất lớn. Chẳng hạn, những khó khăn về điều kiện cấp
giấy phép lao động và bị cấm đoán sẽ dẫn đến hoạt động cho thuê lao động “chui”
sẽ tiếp tục tái diễn, khó hoặc không thể bảo vệ được quyền lợi của người lao
động; giới hạn không hợp lý về thời hạn thuê lại lao động sẽ dẫn đến tình trạng
người lao động bị “đẩy” từ doanh nghiệp cho thuê lao động này sang doanh nghiệp
cho thuê lao động khác để đáp ứng nhu cầu của bên thuê lại lao động theo thỏa thuận
ngầm của các bên; hay từ những quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng sẽ dẫn đến sự
mập mờ về quyền lợi, mà người bị thiệt thòi nhất bao giờ cũng là người lao
động, bởi đơn giản họ là người yếu thế nhất trong quan hệ cho thuê lại lao
động.
VH
Theo Báo Thanh tra
0 comments:
Post a Comment